Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh

Công bố Báo cáo “Mô hình sử dụng kết hợp năng lượng mặt trời trong sản xuất nông nghiệp Kinh nghiệm quốc tế và tiềm năng cho Việt Nam”

  |   Viết bởi :

TÓM TẮT BÁO CÁO “Mô hình sử dụng kết hợp năng lượng mặt trời trong sản xuất nông nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và tiềm năng cho Việt Nam”

Kể từ sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế giá điện khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời vào tháng 4 năm 2017, Việt Nam đã ghi nhận sự bùng nổ số lượng dự án điện mặt trời đăng ký tại nhiều tỉnh thành ở Việt Nam. Bên cạnh đóng góp tích cực về nguồn điện tái tạo và luồng đầu tư tư nhân, sự bùng nổ và tập trung nhiều dự án điện mặt trời tại một số khu vực đã gây nên mối quan ngại về vấn đề sử dụng đất, ảnh hưởng đến quỹ đất cho phát triển nông nghiệp và sinh kế của người dân địa phương. Để tránh những ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội trong quá trình chuyển dịch sang phát triển năng lượng sạch, điều cần thiết là phải tìm ra giải pháp “đôi bên cùng có lợi” đảm bảo lợi ích và đóng góp của người dân địa phương, chủ đầu tư và các bên liên quan.

Năm 2018, Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) đã triển khai “Nghiên cứu về những mô hình sử dụng năng lượng tái tạo kết hợp tại thành phố Cần Thơ, Việt Nam” với mục tiêu tìm ra ứng dụng hiệu quả nhất để kết hợp sản xuất điện từ nguồn năng lượng mặt trời và sản xuất nông nghiệp trên cùng một quy mô đất.  Nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm chuyên gia năng lượng trong nước và quốc tế bao gồm ông Rainer Brohm, chuyên gia quốc tế về năng lượng mặt trời, Ts. Nguyễn Quốc Khánh, chuyên gia kinh tế năng lượng kiêm hệ thống thông tin địa lý (GIS), và các nghiên cứu viên của GreenID với sự hỗ trợ tài chính của Rosa Luxemburg Stifftung. Quá trình thực hiện bao gồm các hoạt động khảo sát thực địa, tổng hợp - phân tích số liệu về đất đai, tiềm năng năng lượng mặt trời tại Cần Thơ cùng với rà soát những mô hình Kết hợp thành công trên Thế giới và hội thảo tham vấn với các bên liên quan tại Cần Thơ. Báo cáo “Mô hình sử dụng Kết hợp năng lượng mặt trời và sản xuất nông nghiệp, kinh nghiệm quốc tế và tiềm năng cho Việt Nam” đã được hoàn thiện, đưa ra một khái niệm và cách tiếp cận mới về mô hình “Kết hợp Năng lượng mặt trời và sản xuất nông nghiệp”.

Kết quả chính của nghiên cứu gồm:

  • Mô hình sử dụng kết hợp điện mặt trời trong sản xuất nông nghiệp có thể giải quyết xung đột trong sử dụng tài nguyên đất giữa phát triển năng lượng và sản xuất nông nghiệp bằng cách kết hợp cả hai hoạt động này trên cùng một khu vực. Ra đời ở Đức vào đầu những năm 1980, mô hình này đã được triển khai ở một số quốc gia với hàng trăm dự án và ứng dụng (chủ yếu là quy mô nhỏ). Gần đây, ngày càng nhiều dự án thương mại quy mô lớn hơn đã được áp dụng tại các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Italia, Pháp.
  • Ứng dụng Kết hợp năng lượng mặt trời trong sản xuất nông nghiệp mang lại cho nông dân và cộng đồng nhiều lợi ích kinh tế - xã hội như tiết kiệm chi phí năng lượng, tăng thu nhập cho nông dân địa phương nhờ tăng vốn đầu tư và thu thuế, cải thiện cơ hội quảng bá và sức cạnh tranh (hình thành chuỗi cung ứng/ sản xuất bền vững), có thể cải tiến các phương thức sản xuất nông nghiệp, giảm nhu cầu năng lượng (trong thời gian cao điểm), giảm phát thải khí CO2 và phát thải gây nguy hại khác tại địa phương từ các nhà máy nhiệt điện truyền thống và phát triển tổng thể ngành nông nghiệp bền vững hơn, tăng sức cạnh tranh của ngành (ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu).
  • Ứng dụng khái niệm này trong nghiên cứu điển hình tại thành phố Cần Thơ cho thấy tiềm năng lớn của việc sử dụng NLMT trong sản xuất nông nghiệp. Mô hình sử dụng kết hợp được xác định sẽ phù hợp để áp dụng với các loại nông sản và thủy sản là: lúa, ngô, đậu tương, vừng, rau xanh, sắn/sắn dây, gia súc, cá và tôm.
  • Tiềm năng kỹ thuật “thực tế” của thành phố Cần Thơ không tính diện tích đất lúa ước đạt 700 – 1.100 MWp, tương đương sản lượng điện tiềm năng từ 1 đến 1,5TWh, có thể đáp ứng 46% - 70% nhu cầu điện hàng năm của thành phố Cần Thơ.
  • Tính cả ứng dụng kết hợp năng lượng mặt trời trong sản xuất nông nghiệp ở các khu trồng lúa, tiềm năng “thực tế” sẽ tăng lên 7.500 đến 11.300 MWp, tương đương 10,5 – 16 TWh, sản lượng này vượt xa nhu cầu điện của thành phố, góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại các cùng khác thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh lân cận.
  • Đánh giá thận trọng về chi phí ứng dụng mô hình sử dụng kết hợp NLMT trong sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện trên giả định căn cứ vào các số liệu quốc tế khá hạn chế hiện nay. Kết quả đánh giá cho thấy chi phí sản xuất điện quy dẫn tối thiểu để sản xuất 1kWh điện mặt trời theo phương thức kết hợp trong điều kiện tiêu chuẩn sẽ ở mức 9,07 UScent, mức tối đa là 9,81 UScent. Mức giá này rất sát với giá FiT hiện nay của Việt Nam là 9,35UScent và cao hơn khoảng 1,5UScent so với biểu giá chi phí tránh được áp dụng cho khu vực phía Nam (7,48UScent/kWh).

Đề xuất chính:

  • Cần xây dựng lộ trình sử dụng kết hợp NLMT trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản ở thành phố Cần Thơ nói riêng và Việt Nam nói chung. Điểm cốt lõi nhất trong lộ trình là triển khai dự án thí điểm sử dụng kết hợp NLMT trong sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam nhằm chứng minh tính phù hợp và tiềm năng của các loại cây trồng, con giống được lựa chọn trong điều kiện sinh thái nông nghiệp trong nước.
  • Thành lập Ban điều phối khu vực hay Nhóm công tác bao gồm các bên liên quan chính để vận động sự ủng hộ của các nhà quản lý, kiến tạo chính sách hay tổ chức tài chính, nâng cao nhận thức cho nông dân và các bên liên quan khác trong lĩnh vực nông nghiệp và năng lượng.
  • Xác định những rào cản tiềm tàng trong việc quản lý đặc biệt là các quy trình sử dụng đất. Ở cấp quốc gia, cần mở rộng áp dụng giá FiT cho mô hình sử dụng kết hợp NLMT trong sản xuất nông nghiệp. Nội dung này bao gồm hai khía cạnh căn bản, đó là điều kiện được hưởng các biện pháp hỗ trợ với ứng dụng mô hình sử dụng kết hợp NLMT trong sản xuất nông nghiệp và hỗ trợ tài chính cần thiết để kích thích thị trường phát triển cũng như các dự án thí điểm giai đoạn đầu.
  • Xem xét đề cập mô hình sử dụng NLMT và sản xuất nông nghiệp trong quy hoạch chiến lược quốc gia, quốc tế và các công cụ chính sách như Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng Xanh hay khung mục tiêu về biến đổi khí hậu – đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).

Để biết thêm thông tin, vui lòng truy cập báo cáo đầy đủ tại http://bit.ly/Dual-use-report-vi  

Nếu có câu hỏi về nội dung báo cáo, vui lòng liên hệ chị Nguyễn Thị Mai Dung – Cán bộ nghiên cứu GreenID qua địa chỉ email: nmdung@greenidvietnam.org.vn hoặc info@greenidvietnam.org.vn