Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh

Tham luận góp ý cho dự thảo Luật BVMT sửa đổi

  |   Viết bởi : Ngụy Thị Khanh

Tham luận góp ý cho dự thảo Luật BVMT sửa đổi tại "Hội thảo đóng góp ý kiến hoàn thiện dự thảo Luật BVMT (sửa đổi)" do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức, diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh vào ngày 29/9/2020.

Tham luận góp ý cho dự thảo Luật Bảo vệ Môi trường (sửa đổi) 

Người góp ý: Ngụy Thị Khanh

Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID)

Đại diện của các Liên minh và mạng lưới VSEA, JEH, NCDs-VN và VRN

Kính thư Đoàn chủ tọa

Sau khi nghiên cứu bản dự thảo Luật mới nhất cũng như đối chiếu với các bản dự thảo Luật trước đây, tôi xin đóng góp một số ý kiến như sau:

1. Tăng cường về quyền tham gia trực tiếp của người dân

1.1. Quyền tham gia trực tiếp của người dân

        Tại Điều 165 Dự thảo 5 Luật BVMT sửa đổi quy định “Cộng đồng dân cư trên địa bàn chịu tác động môi trường của dự án, cơ sở thông qua đại diện của mình là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã hoặc Ban công tác Mặt trận thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã hoặc người do hội nghị cộng đồng dân cư bầu làm đại diện, được chính quyền địa phương công nhận”.

       Quy định như vậy là chưa phù hợp, trái với chủ trương của Đảng tại Nghị quyết 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Tại khoản 2 Mục II Nghị quyết 48 nêu rõ “Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.”

       Hơn nữa, nội dung tại Điều 165 dự thảo 5 Luật BVMT sửa đổi trái với Hiến pháp, làm hạn chế quyền tham gia quản lý nhà nước của người dân. Đồng thời, nội dung này cũng gây xung đột pháp luật với Điều 10 Pháp lệnh dân chủ cơ sở tại xã, phường, thị trấn, tại đó quy định việc lựa chọn ra người đại diện của cộng đồng dân cư thuộc những việc mà nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp, không cần thông qua sự chấp thuận của chính quyền địa phương.”

       Do vậy, tôi kiến nghị cần sửa đổi Điều 165 theo hướng loại bỏ nội dung người đại diện phải được chính quyền địa phương chấp thuận. Bổ sung nội dung về quyền tham gia trực tiếp của người dân trong hoạt động giám sát và thực thi pháp luật môi trường.

1.2. Việc công bố thông tin về môi trường phải xin phép cơ quan nhà nước

       Tại khoản 4 Điều 118 Dự thảo lần 5 Luật BVMT (sửa đổi) quy định “4. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, không thuộc hệ thống quan trắc môi trường quốc gia, quan trắc môi trường cấp tỉnh khi công bố thông tin về chất lượng môi trường xung quanh phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.”

       Theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như yêu cầu của thực tiễn, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội và cần có sự đóng góp nguồn lực từ mọi thành phần trong xã hội trong các hoạt động bảo vệ môi trường. Có rất nhiều vụ việc và vấn đề do chính người dân và các tổ chức ngoài nhà nước là người phát hiện từ thực tế nghiên cứu, phân tích của họ. Tuy nhiên, nội dung tại khoản 4 Điều 118 quy định như vậy sẽ dựng lên các rào cản, hạn chế hoạt động của các chủ thể này trong việc phát hiện, đóng góp thông tin dữ liệu cho lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tôi kiến nghị cơ quan soạn thảo và Quốc hội xem xét sửa lại hoặc loại bỏ quy định tại khoản 4 Điều 118 này cho phù hợp với thực tiễn và chủ trương của Đảng và Nhà nước.

1.3. Liên quan tới cung cấp và công khai thông tin

      Về đánh giá tác động môi trường (ĐTM) Dự thảo Luật đã có nhiều điều chỉnh so với Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014, tuy nhiên vấn đề tham vấn cộng đồng và các cơ quan liên quan tại Điều 33 vẫn còn bất cập. Dự thảo Luật chưa quy định về tham vấn các cộng đồng hay tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng gián tiếp bởi dự án cũng như tham vấn các tổ chức xã hội là một thiếu sót. Bởi thực tiễn cho thấy có nhiều dự án không chỉ ảnh hưởng đến cộng đồng nơi trực tiếp thực hiện dự án mà còn ảnh hưởng cả đến các cộng đồng, tổ chức, cá nhân cách rất xa dự án.

       Về thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá ĐTM đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành thì thẩm quyền thẩm định báo cáo ĐTM thuộc UBND tỉnh phối hợp với Bộ chuyên ngành như quy định trong (phương án 1, phương án 2) Dự thảo Luật là chưa hợp lý. Bởi cơ quan có quyền quyết định dự án đầu tư mà có thẩm quyền tham gia thẩm định mặc dù chỉ là phối hợp cũng rất khó tạo nên sự khách quan trong quá trình thẩm định báo cáo ĐTM có thể dẫn tới hiện tượng vừa đá bóng, vừa thổi còi. Do vậy, chúng tôi cho rằng đối với dạng dự án này sẽ hợp lý hơn nếu quy định giao cho UBND tỉnh phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định. Dự thảo Luật cũng chưa quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và truyền thông trong giám sát việc tham vấn, thẩm định, quyết định báo cáo ĐTM.

       Về công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đây là một nội dung rất quan trọng. Theo quy định tại khoản 8 Điều 38; điểm c, khoản 1 Điều 116 và khoản 1 Điều 118 của Dự thảo Luật có thể thấy Dự thảo này quy định chưa rõ ràng về việc cung cấp thông tin và công khai thông tin về môi trường nói chung, về báo cáo đánh giá tác động môi trường nói riêng. Bởi cung cấp thông tin về môi trường với việc công khai thông tin về môi trường là hai việc khác nhau. Tuy nhiên Điều 118 Dự thảo Luật mới chỉ quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của chủ dự án về báo cáo ĐTM cho cơ qua nhà nước về bảo vệ môi trường mà không có quy định cụ thể bắt buộc về việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình các thông tin về báo cáo ĐTM cho cả tổ chức, cá nhân; chưa quy định thời điểm nào chủ dự án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải công khai, công khai sau khi phê duyệt hay lúc nào; công khai trên hệ thống dữ liệu quốc gia hay trên cổng thông tin của cơ quan, tổ chức nào; chưa quy  định về thời hạn công khai thông tin; chưa quy định nếu không công khai chủ dự án, cơ quan nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý gì, … Do vậy, quy định về công khai thông tin tại tại khoản 3 Điều 118 Dự thảo Luật mang tính hình thức, khó áp dụng trên thực tiễn.

2. Vấn đề kiểm soát ô nhiễm không khí

2.1. Hoàn thiện khung chính sách về kiểm soát ô nhiễm không khí

        Vấn đề ô nhiễm không khí hiện nay đang gây ra nhiều hệ lụy cho cộng đồng, xã hội. Luật BVMT sửa đổi cần phải tạo ra một khung chính sách kiểm soát ô nhiễm không khí đầy đủ, làm căn cứ cho việc thực thi dễ dàng. Một chính sách tốt, hoàn thiện và dễ thực thi phải đầy đủ về đối tượng, nội dung, phương pháp và chế tài xử lý. Mặc dù dự thảo 5 và các dự thảo trước đó đã dành hẳn một Mục quy định về kiểm soát ô nhiễm không khí. Tuy nhiên, những quy định này vẫn chưa đầy đủ các yếu tố của một chính sách tốt và dễ dàng thực thi.

        Đặc biệt, quy định về những đối tượng chịu sự kiểm soát về chất lượng không khí tại Điều 13 về Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dự thảo lần 2 đã bị bỏ ra trong dự thảo 3, dự thảo 4 và dự thảo lần 5 này. Sau khi bỏ điều này thì thấy Luật mới sẽ yếu hơn hẳn khi hướng tiếp cận quản lý phát thải theo khả năng chịu tải môi trường không được đề cập, đồng thời việc kiểm soát chặt chẽ hơn các nguồn liên tỉnh cũng như các nguồn phát thải đáng kể từ hoạt động sản xuất công nghiệp, nguồn nhiên liệu hóa thạch như nhiệt điện than cũng không được đặc biệt kiểm soát. Đây là nội dung vô cùng quan trọng cần phải đưa vào luật.

       Hơn nữa Điều 12, 13, 14 Dự thảo 5 chưa quy định về quyền, nghĩa vụ của các đối tượng có trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm không khí. Thậm chí, Dự thảo 5 chưa quy định về chế tài xử lý những đối tượng gây ô nhiễm không khí.

       Do vậy, tôi kiến nghị cần chỉnh sửa, bổ sung chính sách kiểm soát ô nhiễm không khí rõ ràng theo các tiêu chí của một chính sách hoàn thiện, đó là đối tượng, nội dung, phương pháp và chế tài xử lý.

2.2. Quy định về vấn đề sức chịu tải của môi trường không khí

       Trong các bản dự thảo đầu tiên, Bộ Tài nguyên & Môi trường đã đề xuất quy định về “sức chịu tải của môi trường không khí”. Mục tiêu hướng tới đó là các nguồn phát thải vào không khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và đặc điểm của khí thải.  Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, đánh giá tính phù hợp để quyết định cấp phép cho đầu tư các dự án có phát thải khí. Chúng tôi ủng hộ cách tiếp cận khoa học và hướng tới hiệu quả quản lý này của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đây cũng là kinh nghiệm thành công của nhiều nước trên thế giới.

        Tuy nhiên, khi dự thảo được trình lên Quốc hội thì quy định này đã bị loại bỏ từ Dự thảo 4 và Dự thảo 5 vì lý do “Về đánh giá khả năng chịu tải của các thành phần môi trường không khí…khó thực hiện bởi đặc thù lan truyền các chất trong không khí biến đổi nhanh…”.

        Chúng tôi cho rằng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật đặc biệt là công nghệ số như hiện nay, việc đo đạc và xác định sức chịu tải của môi trường không khí là điều khả thi. Ngoài ra, Bộ Tài nguyên Môi trường là cơ quan chuyên môn khi đưa vấn đề này vào trong điều 13 của dự thảo 2 chứng tỏ cũng đã xem xét khả năng phát triển đáp ứng được các yêu cầu về kĩ thuật của việc đánh giá sức chịu tải của môi trường. Thực tế, nhiều nước trên thế giới, điển hình là tại Mỹ, Bộ luật không khí sạch của họ có quy định rất rõ về vấn đề này. Việt Nam cần thiết phải nghiên cứu và học hỏi các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới để đảm bảo đo lường chính xác sức chịu tải của môi trường không khí.

         Do vậy, tôi kiến nghị cần bổ sung quy định về sức chịu tải của môi trường không khí theo đề xuất của Bộ Tài nguyên & Môi trường trong dự thảo 1. Đồng thời, cần phải định nghĩa rõ ràng, làm rõ các đối tượng liên quan và hướng dẫn chi tiết hoạt động đo lường sức chịu tải của môi trường không khí trong các văn bản hướng dẫn.

2.3. Về tiêu chuẩn, quy chuẩn kĩ thuật môi trường

         Dự luật hiện hành chưa đề cập tới lộ trình thắt chặt mức quy chuẩn/tiêu chuẩn của Việt Nam tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế. Chúng tôi khuyến nghị cần bổ sung trách nhiệm của Bộ Tài nguyên Môi trường trong rà soát và đưa ra lộ trình thắt chặt các quy chuẩn, tiêu chuẩn phát thải đối với các nguồn phát thải khí lớn như nhà máy nhiệt điện than, xi măng, sắt thép, hóa chất… và việc xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn này cũng cần tham khảo công nghệ tốt nhất hiện có (Best Available Technology).

         Nhiệt điện than là một trong những ngành đóng góp đáng kể vào ô nhiễm không khí[1], tuy nhiên những quy chuẩn/tiêu chuẩn phát thải hiện tại của các nhà mày nhiệt điện than ở Việt Nam “nới lỏng” hơn nhiều so với những nước đang đầu tư lớn vào nhiệt điện than ở Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản[2],[3] hay nước láng giềng Trung Quốc. Những quy định lỏng lẻo hơn về tiêu chuẩn sẽ dẫn đến những yêu cầu thấp hơn về công nghệ, điều này cho phép chủ đầu tư của những quốc gia có tiêu chuẩn cao hơn này xuất khẩu công nghệ lạc hậu, phát thải ở mức cao, gây ô nhiễm môi trường sang Việt Nam. Việc nâng cao các tiêu chuẩn, quy chuẩn tiệm cận quốc tế là cần thiết để tránh các nguy cơ ô nhiễm, ngăn chặn nguy cơ ô nhiễm theo dòng chảy công nghệ lạc hậu, chất thải vào Việt Nam.

             Bảng. So sáng tiêu chuẩn nồng độ khí thải giữa các nước nhà máy đang vận hành[4]

          Đạt được môi trường sống khỏe mạnh cho mọi người dân là mục đích cuối cùng của việc quản lý chất lượng không khí, bao gồm cả việc đáp ứng các khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Đây là một quá trình lâu dài và cần có những mục tiêu cụ thể, Bộ TNMT cần xem xét và có lộ trình cho việc việc nâng dần các quy chuẩn chất lượng không khí tiệm cận với Hướng dẫn của WHO. Vẫn biết rằng Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế nên chưa áp dụng được những Khuyến nghị của WHO, tuy nhiên để đảm bảo sức khỏe người dân, vẫn cần có một lộ trình để thắt chặt các tiêu chuẩn trên.

3. Các quy định liên quan tới năng lượng tái tạo

         Dự Luật cần có nội dung riêng quy định về phát triển năng lượng tái tạo và thể hiện được các nội dung của Nghị quyết 55 mới ban hành.

         Trong tờ trình trình Quốc hội Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường ở phần những quan điểm chủ trương, chính sách mới của Nhà nước được tham chiếu làm cơ sở xây dựng, sửa đổi Luật chưa đề cập đến Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị ban hành tháng 2 năm 2020. Đây là một văn bản quan trọng nêu quan điểm chủ đạo ưu tiên phát triển năng lượng phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, ưu tiên khai tác, sử dụng triệt để và hiệu quả năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch.

         Nghị quyết yêu cầu:

  1. Có lộ trình giảm tỉ trọng điện than 1 cách hợp lý.
  2. Sử dụng năng lượng hiệu quả, bảo vệ môi trường phải trở thành quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội.
  3. Tạo các cơ chế chính sách đột phá để phát triển năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hóa thạch

        Giải pháp số 9 trong Nghị quyết là: Thực thi chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững:

  1. Nghiên cứu, xây dựng chính sách thuế các bon thích hợp với việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch
  2. Có cơ chế, chính sách triển khai việc thu hồi, sử dụng khí CO2
  3. Đánh giá hiệu quả sử dụng, tái chế tro, xỉ phát sinh, nhất là miền Nam
  4. Hoàn thiện khung chính sách, xây dựng và bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về khí thải và chất thải trong ngành năng lượng theo hướng tiệm cận với những tiêu chuẩn của các nước phát triển
  5. Bổ sung quy định sàng lọc dự án đầu tư theo rủi ro về môi trường
  6. Đảm bảo tính đúng tính đủ các chi phí môi trường, xã hội trong đầu tư và giá thành sản phẩm
  7. Thông tin tuyên truyền kịp thời và đầy đủ về công tác bảo vệ môi trường trong ngành năng lượng
  8. Có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp môi trường gắn với ngành năng lượng
  9. Rà soát điều chỉnh, bổ sung vào Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, chiến lược biển Việt Nam các nội dung liên quan tới năng lượng

       Về nội dung liên quan tới năng lượng tái tạo trong dự luật mới bản tham vấn quốc hội thì được thể hiện ở các điều gồm:

  1. Điều 66 về Quy hoạch khu đô thị
  2. Điều 75 khoản 2 về yêu cầu quản lý chất thải
  3. Điều 153: về Ưu đãi, hỗ trợ về bảo vệ môi trường
  4. Điều 159 về Phát triển thị trường hang hóa và dịch vụ môi trường
  5. Điều 164 về Trái phiếu Xanh
  6. Điều 186: Trách nhiệm của Bộ Công Thương

       Dự Luật sửa đổi đã bỏ đi điều 43 trong Luật Bảo vệ Môi trường 2014 về Phát triển Năng lượng tái tạo trong đó nêu định nghĩa năng lượng tái tạo và chủ trương khuyến khích sử dụng, nhập khẩu, sử dụng máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng tái tạo. Chúng tôi nhận thấy phát triển năng lượng tái tạo hiện nay đang là xu thế Xanh vì vậy vẫn cần có điều luật quy định riêng để thể hiện rõ tư tưởng đột phá của Đảng và Nhà nước trong phát triển Xanh. Vì vậy cần giữ nguyên 1 điều quy định về Phát triển Năng lượng tái tạo như Luật bảo vệ môi trường 2014 để khẳng định đúng chủ trương của Đảng đưa ra trong NQ55 và là bước cụ thể hóa đầu tiên của ngành môi trường trong việc thực hiện Nghị quyết này. Song song với đó, đề xuất bổ sung vào điều này nội dung khuyến khích nghiên cứu, đầu tư phát triển, sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu và ứng dụng công nghệ, thiết bị sử dụng năng lượng tái tạo rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất và giao thông.

       Những ý kiến nêu trên là kết quả nghiên cứu, phân tích, tổng hợp kết quả tham vấn, hội thảo với cộng đồng địa phương và các cá nhân và tổ chức thành viên của các Liên minh: Liên minh năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), Nhóm công lý, môi trường và sức khỏe (JEH), Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN) và Liên minh phòng chống các bệnh không lây nhiễm (NCDs-VN). Các ý kiến này cũng đã được chúng tôi gửi trong thư Kiến nghị tới Ban soạn thảo và Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường của Quốc hội cho mỗi bản thảo được tham vấn./.

 

[1] Trong năm 2015, nhiệt điện than và các khu công nghiệp ngoài Hà Nội đóng góp khoảng 20% vào ô nhiễm không khí tại Hà Nội – theo báo cáo Dự báo chất lượng Không khí tại Hà Nội và khu vực phía Bắc Việt Nam, Viện Phân tích Hệ thống Ứng dụng Quốc tế (IIASA), Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam (VAST). (https://www.iiasa.ac.at/web/home/research/researchPrograms/air/news/Du_bao_chat_luong_khong_khi_Ha_Noi_VN.pdf)

[2] Các nhà máy điện than do Nhật Bản đầu tư ở nước ngoài (trong đó có Việt Nam) thải ra lượng khí ôxit nitơ (NOx​) cao gấp 13 lần, lưu huỳnh điôxit ( SO​2​) cao gấp 33 lần và lượng bụi cao gấp 40 lần so với các nhà máy được xây dựng ở Nhật Bản. (https://storage.googleapis.com/planet4-japan-stateless/2019/08/d8d87182-double_standard_report_a4_web.pdf)

[3] Các nhà máy nhiệt điện do Hàn Quốc đầu tư ở nước ngoài (trong đó có Việt Nam) thải ra lượng khí ôxit nitơ (NOx) cao gấp 18,6 lần; lưu huỳnh điôxit (SO2) cao gấp 11,5 lần và lượng bụi cao gấp 33 lần so với các nhà máy xây dựng tại Hàn Quốc. (https://storage.googleapis.com/planet4-international-stateless/2019/11/20191122-Double_standards_exec_Design_Viet.pdf)

[4] Khuyến nghị chính sách: Giảm ô nhiễm không khí không thể chờ vào than sạch, (GreenID, 2019). http://greenidvietnam.org.vn/view-document/5eb10eb82ac5db41078b4567